HCV
được lây truyền qua máu. Lạm dụng thuốc tiêm tĩnh mạch là phương thức
lây truyền phổ biến nhất, trong khi nguy cơ lây qua quan hệ tình dục là
rất thấp.
Thông
thường bệnh nhân không có triệu chứng cho đến khi tiến triển đến có xơ
gan. Tuy nhiên, vài bệnh nhân chỉ mệt mỏi và không có triệu chứng đặc
hiệu khi không có xơ gan. Một ít bệnh nhân có triệu chứng ngoài gan.
Viem gan siêu vi C được chẩn đoán bằng xét nghiệm kháng thể kháng HCV, mà
chẩn đoán được khẳng định bởi xét nghiệm dựa trên acid nucleic của
virus. Số lượng virus không tương xứng với độ nặng của bệnh.
Sinh
thiết gan đã từng dùng để đánh giá tổn thương gan (tổn thương tế bào
gan và sẹo) và quan trọng trong tiên lượng và lên kế hoạch điều trị.
Những
tiến bộ đáng kể đã có trong dieu tri viem gan cap. Đối bệnh nhân nhiễm
genotype 2 hay 3, điều trị bằng interferon (interferon biến đổi) kết hợp
ribavirin có thể đạt kết quả trên 80% bệnh nhân.
Điều
trị bệnh nhân nhiễm genotype 1 có mức độ điều trị thành công với
interferon biến đổi với ribavirin thì chỉ <50%, vẫn còn là thách
thức.
Điều trị được khuyến cáo đối với bệnh nhân có RNA-HCV có thể tìm thấy, có xét nghiệm men gan tăng hằng định và bằng chứng của sẹo và ít nhất là viêm trung bình trên sinh thiết gan nhưng không có dấu hiệu của suy gan.
Điều trị cải thiện được tình trạng viêm và sẹo gan ở người đáp ứng duy trì và đôi khi cũng có ở người đáp ứng tái phát và không đáp ứng.
Thử
nghiệm lâm sàng đang được thực hiện để đánh giá sự kết hợp yếu tố kháng
virus khác và interferon biến đổi trong điều trị viem gan sieu vi trung C.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét