Cây chó đẻ là cây thuoc nam chua benh gan
Cây chó đẻ gồm nhiều loài khác nhau và có tên gọi khác nhau là chó đẻ răng cưa, diệp hạ châu nhưng có cùng công dụng
Cây chó đẻ gồm nhiều loài khác
nhau và có tên gọi khác nhau là chó đẻ răng cưa, diệp hạ châu nhưng có
cùng công dụng (toàn cây chó đẻ bỏ rễ, rửa sạch dùng tươi hoặc phơi khô
có thể làm thuốc chữa bệnh).
Bảo vệ gan
Cây chó đẻ có tên khoa học là Phyllanthus urinaria L, là dạng cây thảo,
thường cao 20 cm – 30 cm, có khi tới 60 – 70 cm. Thân nhãn có màu hồng
đỏ, lá mọc so le hình bầu dục, xếp kề nhau thành hai dãy như một lá kép
hình lông chim.
Phân tích thành phần hóa học của cây chó đẻ người ta thấy, có nhiều chất
thuộc nhóm hóa học khác nhau như: flavonoit, tritequen, tamin, axit hữu
cơ, phenol, lignam…
Về tác dụng dược lý: trong thí nghiệm về hoạt tính
bảo vệ gan của cây chó đẻ, thấy có tác dụng bảo vệ gan. Các thí nghiệm
về cây chó đẻ với kháng nguyên HBsAg chứng tỏ cây chó đẻ có tác dụng
kháng virus viêm gan B.
Theo y học cổ truyền, cây chó đẻ có vị ngọt, hơi đắng, tính mát, có tác
dụng lợi tiểu, tiêu độc, sát trùng, tốn ứ, thông huyết, điều kinh, thanh
càn, hạ nhiệt…, thường được dùng làm thuốc chữa các bệnh đau gan, đau
thận, bệnh về đường tiết niệu, đường ruột, ngoài da.
Một số bài thuốc chua benh viem gan b thì dùng chó đẻ 30g, nhân trần 12g, sài hồ 12g, chi từ
8g, hạ khô thảo 12g, sắc (nấu) uống ngày 1 thang. Chữa nhọt độc sưng đau
thì dùng cây chó đẻ một nắm với một ít muối giã nhỏ, chế nước chín vào,
vắt lấy nước cốt uống, dùng bã đắp chỗ đau; chữa bị thương làm đứt chảy
máu, dùng cây chó đẻ với vôi giã nhỏ, đắp vào vết thương; chữa lở loét
thối thịt không liền miệng dùng lá cây chó đẻ, lá thồm lồm (với lượng
bằng nhau), đinh hương 1 nụ, giã nhỏ đắp; chữa bệnh chàm (eczema) mãn
tính dùng cây chó đẻ vò, xát nhiều lần vào chỗ bị chàm, làm liên tục
hằng ngày sẽ khỏi; chữa viêm gan, vàng da, viêm thận đái đỏ, hoặc viêm
ruột tiêu chảy, hoặc mắt đau sưng đỏ dùng cây chó đẻ 40g, mã đề 20g,
dành dành 12g để sắc uống; chữa sốt rét dùng cây chó đẻ 8g, thảo quả,
dây hà thủ ô, lá mãng cầu ta tươi, thường sơn, dây gắm mỗi vị 10g, binh
lang (hạt cau), ô mai, dây cóc (mỗi vị 4g) đem sắc với 600 ml nước, còn
200 ml, chia uống 2 lần trước khi lên cơn sốt rét 2 giờ. Nếu không hết
cơn, thêm sài hồ 10g.
Chữa ăn không ngon miệng, đau bụng, sốt, nước tiểu màu sẫm dùng cây chó
đẻ 1g, nhọ nồi 2g, xuyên tâm liên 1g. Tất cả các vị thuốc trên phơi khô
trong bóng râm và tán bột. Sắc bột thuốc này và uống hết ngay một lúc.
chua benh viem gan bằng cây chó đẻ răng cưa
Chó đẻ răng cưa (Phyllantus urinaria L., tên đồng danh: P. amarus,
P. cantoniensis Hornem., P. alatus Blume, họ thầu dầu Euphorbiaceae),
cây mang tên này vì người ta thấy những con chó sau khi đẻ thường đi ăn
cây này. Cây còn có tên là diệp hạ châu, vì có các hạt tròn nằm dưới
lá. Ngoài ra còn có nhiều tên khác: trân châu thảo, diệp hạ châu đắng,
diệp hòe thái, lão nha châu...
Chó đẻ răng cưa là cây thuộc thảo, sống hàng năm. Toàn cây có màu
xanh. Thân nhẵn, mọc thẳng đứng, mang cành nhỏ, cao khoảng 30-50cm, có
khi tới 80cm. Lá mọc so le, lưỡng hệ, trông như lá kép. Phiến lá thuôn,
dài 5-15mm, rộng 2-5mm, đầu nhọn hay hơi tù, mép nguyên, không cuống
hoặc cuống rất ngắn, mặt dưới màu xanh lơ. Hoa đơn tính, nhỏ, hoa đực,
mọc thành chùm 2-4 hoa, dọc theo phần ngoại biên của các cành nhỏ, có 6
lá đài hình elip, hoặc trứng ngược. Có 3 nhị, chỉ nhị hợp nhất thành cột
mảnh. Hoa cái cùng gốc, dọc theo phần giữa và phần dưới của cành nhỏ,
có 6 lá đài hình trứng. Bầu nhụy hình trứng hay hình cầu, có 3 vòi nhụy.
Hoa không cuống rất ngắn, mọc ở kẽ lá, hoặc đầu cành, màu đỏ nâu. Quả
nang, hình cầu nhỏ, đường kính 2-2,5mm, màu đỏ hơi xám nhạt, xếp thành
hàng dọc. Hạt hình ba mặt, hình trứng, màu nâu đỏ, hơi xám nhạt, có vân
ngang. Mùa ra hoa từ tháng 4-6. Chó đẻ răng cưa mọc hoang ở nhiều nơi
trên nước ta. Hiện đã được trồng với diện tích lớn để lấy nguyên liệu
sản xuất thuốc trị viem gan.
Viêm gan c thì k nên ăn những món gì ạ?
Trả lờiXóa