benh san la gan lớn (Fascioliasis) là một bệnh nhiễm ký sinh trùng gây ra bởi hoặc là Fasciolia hepatica hoặc Fasciola gigantica.Người
là các vật chủ tình cờ cho bệnh và vật chủ chính vẫn là cừu và một số
gia súc khác như trâu, bò. Bệnh thường xảy ra chủ yếu ở cừu chăn thả ở
các vùng có khí hậu ôn đới tại các quốc gia thuộc Nam Mỹ, châu Âu, Trung
Quốc, châu Phi và Trung Đông kể cả Ai Cập. Tổng số ước tính số bệnh nhân nhiễm là 2.5 triệu người của 61 quốc gia và hơn 180 triệu người có nguy cơ với bệnh (Hasseeb
và cs., 2002). Gulsen và cs. (2006) cho biết bệnh được phát hiện tại
nhiều quốc gia phát triển và chưa phát triển. Do vậy,
bệnh SLGL hoặc ở người hoặc ở động vật chứng tỏ đây là một vấn đề y tế
toàn cầu? Bệnh SLGL ở người tồn tại từ một kỷ nguyên rất xa xưa. Dittmar và Teegen (2003) trong suốt quá trình “excavation” của Saale-Unstrut-Valley (3000BC),một mẫu đất từ xương chậu của bộ xương người được kiểm tra về mặt “palaeoparasitological” và trứng của sán F. hepatica được phục hồi và đây là lần đầu tiên của trường hợp đầu tiên có liên quan đến nhiễm F. hepatica
đối với cả bộ xương người thời tiền sử và vật nuôi còn tồn tại. Những
gì được xác đinh jsau đó cũng tại vùng nghiên cứu này chính là sự có mặt
của các mẫu vật xương cừu và gia súc. Bệnh SLGL có hai giai đoạn lâm
sàng, gọi là giai đoạn cấp xảu ra đồng thời với quá trình xâm nhập gan
và giai đoạn mạn tính do sự xuất hiện sán trong đường mật, Barrett-Conner
(1986). Ấu trùng giai đoạn nhiễm của ký sinh trùng này đóng kén trên
các thực vật thủy sinh như rau cải xoong hoang dại và quá trình tiêu hóa
các thực vật thủy sinh từ các vùng nhiễm dẫn đến nhiễm bệnh. Sự thay
đổi thời tiết toàn cầu làm gia tăng bệnh giun sán nhiễm qua đường ốc (snail-borne helminthiasis), điều này lệ thuộc nhiều vào các yếu tố môi trường,Mas-Coma và cs. (2005). Các tác giả này còn bổ sung thêm sự lan rộng của F. hepatica
từ nguồn gốc châu Âu đến các lục địa khác do sự mở rộng vùng địa lý của
các loài ốc đóng vai trò vật chủ họ Lymnae có xuất xứ từ châu Âu.
Tại
Ai Cập, bệnh SLGL là một bệnh động vật truyền sang người đang gia tăng
tại các vùng lưu hành, nơi mà các ổ chứa là động vật và trung gian
truyền bệnh ốc sẵn có. Nhiều tác giả Ai Cập nghiên cứu về bệnh SLGL ở
người và động vật cũng như vật chủ ốc. Nói chung, bệnh SLGL đã được báo
cáo (Abdel-Ghani, 1958; Abou-Basha và cs., 1990; El Shazly và cs., 1991a,b;200a,b; Magdi và cs.,1993; Ashour và cs., 1999;Makledvà cs., 1988;El Khashabvà cs., 1993;ElBahy, 1997; Farag, 1998; Haridy và Morsy., 2000;Motaweavà cs., 2001; Mahmoud và cs., 2002; Haridy và cs., 1999; 2003; 2007; Curtalevà cs., 2003;Esteban và cs., 2003;Abo Madyan evà cs., 2004, 2005; Massoud và cs., 2007,Hassan và cs., 2008).
Hai mô hình nhiễm chính gặp ở Ai Cập, nước từ các dòng và cây cải xoong khác nhau. Trước đây, F. gigantica là loài ưu thế nhất nhiễm trên các động vật nhai lại khắp Ai Cập, trong khi F. hepatica
lại rất hạn chế ở vùng ốc đảo. Ngày nay, cả hai loài cùng tồn tại trên
các thú nuôi và gia súc khác. Tại Ai Cập, nhiều loại rau lá xanh được ăn
sống, như loại Erucasativa,Lactucasativavà Allium kurrat. Đây không phải là thủy sinh nhưng chúng được trồng dọc theo các kênh nước và cần tưới nhiều nước (Abo-Madyan
và cs., 2005). Tiếc thay, các loại rau này được rửa bằng nước kênh đào
hoặc trong vòi nước chảy không hợp lý. Các loại rau lá xanh như rau
salad xanh có ở mọi nơi cả nhà hàng sang trọng và bình dân. Một cách
chính xác, điều kiện tương tự là ở vùng Andean chủ yếu tại Peru và Bolivia (Marcos
và cs., 2006). Các yếu tố nguy cơ cho sự lan truyền bệnh sán lá gan lớn
là các nguồn nước ở kênh và dòng nước cũng như rau cải xoong và các
loại rau xanh thông thường từ các quốc gia.
Bệnh Sán lá gan lớn lạc chỗ tác động tại vị trí nhiễm:
Aguirre Errastivà cs (1981)tại Tây Ban Nha báo cáo nhiễm trùng bởi F. hepatica có tần suất đang gia tăng. Qua giai đoạn 5 năm, các tác giả đã nghiên cứu có 25 trường hợp bị SLGL loài F. hepatica,
tất cả trong số chúng được chẩn đoán thông qua xét nghiệm trứng trong
phân hoặc trong dịch tá tràng. Trong 2 ca, vị trí nhiễm trùng lạc chỗ
của ký sinh trùng cho ra các đặc điểm lâm sàng không bình thường. Trường
hợp đầu tiên trình bày là giai đoạn trong gan cả vị trí da và vị trí
mào tinh hoàn với một hình ảnh mô bệnh học tương tự với tổn thương tại
gan. Liên quan đến mào tinh hoàn, không như trích dẫn trước đây trong y
văn, thì trường hợp này lại tăng túi nước (hydrocele).
Trường hợp thứ 2 trình bày với các dấu hiệu có liên quan đến hệ thần
kinh trung ương và tăng bạch cầu ái toan trong dịch não tủy. Thuốc dehydroemetine có hiệu quả trong cả tất cả bệnh nhân, gồm cả những trường hợp lạc chỗ. Theo đó, một con sán trưởng thành Fasciola sp., nhưng không có tuyến noãn hoàng và phẩu tích tử cung từ thành trước của bụng một phụ nữ 32 tuổi Hàn Quốc(Chang và cs., 1991). Đây là ca bệnh đầu tiên nhiễm trùng ngoài ổ bụng được ghi nhận tại Hàn Quốc. Sán nằm ở vị trí cơ trơn phía trước kèm theo phản ứng mô hạt.L.T. Xuan và cs. (2005)
tại Việt Nam đã báo cáo ca bệnh đầu tiên của SLGL ở vùng da niêm, khi
chú ý đến vết di chuyển bên hạ sườn (P) của một bênh nhân nữ 40 tuổi Lấy dịch tiết từ cuối túi nước của đường rắn bò cho thấy dịch có màu nâu sáng, một con sán Fasciola sp. chưa trưởng thành đang sống, họ cho biết các triệu chứng lâm sàng giống như một hội chứng ấu trùng di chuyển.
2.Bệnh sán lá gan lớn lạc chỗ ở não bộ (Brain fascioliasis)
Zhou
và cs. (2008) tại Trung Quốc đã báo cáo ca bệnh SLGL lạc chỗ trên cả
não và mắt (P) trên một cậu bé tuổi còn đi học, điều này có liên quan
đến hai ổ phình mạch trong não chưa võ. Sau khi tiêu hóa loại Potamondenticulata (một
loại cua nước ngọt) đã 4 tháng, cậu bé 10 tuổi có các dấu chứng thần
kinh gây ra bởi 5 giai đoạn xuất huyết não và tạo máu tụ trong não. Đồng
thời bênh nhi còn có biểu hiện đau đớn ở mắt (P) tái đi tái lại kèm
theo đau đầu, nôn mửa, đau mắt và lồi mắt, liệt dây thần kinh mắt số 6.
Chụp mạch kỹ thuật số cho thấy hình ảnh hai điểm phình mạch chưa vỡ
trong sọ não. Sán bị loại bỏ khỏi vùng kết mạc sưng phồng của bệnh nhân
và nhờ vào kết quả test. Bệnh nhân hoàn toàn phục hồi sau khi điều trị.
Hai khối phình mạch không được điều trị nhưng đã được theo dõi một thời
gian dài. Chụp mạch xóa nền DSA theo
dõi cho thấy một điểm phình mạch biến mất nhưng điểm còn lại chưa thay
đổi. Các tác giả đã kết luận rằng các xuất huyết và khối máu tụ trong
não có thể có liên quan đến bệnh SLGL lạc chỗ ở não và mắt. Một nhiễm
trùng trong sọ não thường gây ra bởi F. hepatica
hoặc các ký sinh trùng khác gây ra các triệu chứng sốt không rõ nguyên
nhân, tăng bạch cầu ái toan, xuất huyết sọ não tái hồi. Việc ăn uống các
P. denticulata là một lan truyền hiếm gặp của bệnh SLGL.
3.Bệnh sán lá gan lớn lạc chỗ ở mắt (Ocular fascioliasis)
Cho và cs. (1994)
đã báo cáo một nam giới 28 tuổi bị cơn đau đầu và đau thần kinh vận
động yếu nhiều tháng nay. Các tác giả đã cho soi mắt thấy một con sán Fasciola sp.
còn non đi xuyên qua mống mắt và chiếm trọn tiền phòng trong thời gian
ngắn, sau đó chúng quay lại buồng sau mống mắt. Các triêu chứng khác gồm
phù màng sừng, phù giác mạc, xuất huyết tiền phòng, xơ hóa giác mạc và
xuất huyết nội nhãn. Xét nghiệm về
mặt vi thể cho thấy một hình ảnh khuyết tật mô đột ngột và phản ứng viêm
nhẹ ở lớp màng giữa của nhãn cầu. Các tác giả cho rằng đây là ca bệnh
đầu tiên của SLGL nội nhãn được báo cáo trong y văn. Dalimi và Jabarvand
(2005) ở Iran báo cáo các triệu chứng tương tự (phù giác mạc, xuất huyết tiền phòng). Quan sát thấy con sán non kích thước 4.26
x 2.04mm. Các tác giả không thể xác định đường đi vào tiền phòng của
mắt. Tuy nhiên, họ đề nghị có thể sán đi theo con đường động mạch trung
tâm của võng mạc vào trong thể thủy tinh. Con đường này có thể dẫn đến
viêm mạch và viêm nội nhãn. Họ kết luận rằng bệnh SLGL ở mắt phải được
nghĩ đến trong các vùng lưu hành ở Iran. Ying và cs. (2007) tìm thấy một đứa trẻ 8 tuổi ở hạt Xuan-Han, tỉnh Sichuan, Trung Quốc có biểu hiện đau đầu, buồn nôn và nôn mửa 6 tháng nay. Chụp CT
scan cho thấy hình ảnh đa điểm xuất huyết trong não. Bệnh nguyên của
xuất huyết não được phân tích qua chụp mạch cắt lớp xóa nền DSA và các
điểm phình mạch não được nhìn thấy. 26 ngày sau khi nhập viện, một con sán dẹt lồi ra từ mắt (P) bệnh nhân và xác định là F. hepatica.
4.Bệnh sán lá gan lớn lạc chỗ ở hệ sinh sản (Reproductivesystemfascioliasis)
Aguirre Errasti và cs.(1981)
đã báo cáo ca bệnh đầu tiên về SLGL lạc chỗ trên mào tinh hoàn. Bệnh
nhân bị tràn dịch màng tinh hoàn và bị giai đoạn mạn tính của SLGL ở
gan. Nhiễm trùng này đồng thời với bệnh SLGL lạc chỗ dưới da. Hiện tượng
tràn dịch màng tinh hoàn do tắc nghẽn của viêm mào tinh hoàn của sán
non Fasciola.
Tesana và cs.(1989) báo cáo 2 trường hợp sán F. gigantica
từ vùng đông bắc Thái Lan, biểu hiện viêm túi mật và sỏi mật. Cả hai
trường hợp đều có đau bụng. Mổ bụng thăm dò thấy sán bên trong Trong một
ca có 5 con sán trong quá trình thăm dò đường mật và dẫn lưu đường mật;
trứng cũng hiện diện trong dịch mật. Trong ca khác thấy có sán non tìm
thấy trong một nốt bám chặt vào gan và cơ hoành. Sán được xác định là F. gigantica. Zali và cs. (2004) tại Iran có báo cáo một trường hợp đa u tủy xương đang được điều trị bằng prednisolone và melphalan. Bệnh nhân bị sán F. hepatica,
có liên quan đến nhiều cơ quan và tổn thương dễ nhầm lẫn với một tổ
chức di căn ung thư. Các tác giả kết luận rằng điều này là ca bệnh hiếm
gặp, có thể xem đó là ca bệnh đầu tiên liên quan đến tụy, lách và thận
cũng như gan. Lee và Kim (2006)
tại Hàn Quốc trình bày về bệnh SLGL không thường gặp ở người, hơn nữa
quá trình di chuyển lạc chỗ vào trong tụy lại càng hiếm.
Chẩn đoán xác định bệnh SLGL lạc chỗ nhờ vào phát hiện sán tác động lên
trên các cơ quan. Song, nếu sán xâm nhập vào nhu mô thì nghiên cứu hình
ảnh lâm sàng có những hạn chế trong việc phát hiện sán và khi đó phẩu
thuật là cần thiết để xác định. Ca bệnh này được chẩn đoán thông qua
bằng chứng gián tiếp. Một phụ nữ Hàn Quốc 46 tuổi nhập viện với đau vùng
hạ sườn (T). cô ta có dùng thuốc praziquantel
để điều trị SLGL từ một chẩn đoán của BV khác, sau đó không khỏi mà còn
đau bụng tăng hơn. Xét nghiệm máu ngoại vi cho thấy bạch cầu ái toan
tăng, tăng amylase máu và lipase máu. Chụp CT
ổ bụng cho thấy hình ảnh đa ổ giảm âm kèm theo tạo khối, hình thành các
nốt không đồng đều trong đoạn cắt ra vùng thùy bên (T) của gan và kích
thước khoảng 2-3 cm, tổn thương giảm âm trong vùng eo và thân tụy. Kháng thể IgG chống lại F. hepatica dương tính. Điều trị cho bệnh nhân bằng thuốc Bithionol và các triệu chứng cải thiện, trị số bạch cầu ái toan trở về bình thường. Chụp CT cho thấy hình ảnh gan và tụy trở về bình thường ở tuần thứ 10 và huyết thanh F. hepatica âm tính sau đó 5 tháng.
Lee và cs.(1982)
tại Hàn Quốc có báo cáo một ca bệnh SLGL lạc chỗ liên quan đến manh
tràng và đại tràng lên. Ca bệnh là một phụ nữ Hàn quốc 19 tuổi có tiền
sử đau bụng dữ dội ngay sau bữa ăn và đau bụng từng cơn trong thời gian 3
tuần. Bệnh nhân có một khối u ở bụng bên hạ sườn (P), đã phẩu thuật cắt
bỏ nửa kết tràng.
Toàn bộ manh tràng và đại tràng lên cho thấy nhiều ổ, u hạt hoại tử
giống đường hầm kèm theo tạo khoang trung tâm. Nhiều tính thể Charcot Leyden
chạy dọc theo đường di chuyển của sán. Tổn thương thường là dày toàn bộ
thành ruột, xét nghiệm về mặt ký sinh trùng tìm thấy trong lòng ruột là
dạng sán non Fasciola. Các tác giả bình luận vị trí sán và mô hình nhiễm. Park và cs.(1984) báo cáo một ca bệnh lạc chỗ do nhiễm Fasciola spp.trong vách manh tràng. Bệnh nhân là một phụ nữ 27 tuổi người Hàn Quốc, sống tại Seoul
có biểu hiện là buồn nôn, nôn mửa và đau thắt thượng vị, có một khối ở
vùng thượng vị bên hố chậu (P). Một chẩn đoán ung thư đại tràng được đưa
ra ban đầu và bệnh nhân được mổ cắt manh tràng. Kết quả phân tích khối u
là một phản ứng viêm chứa nhiều vết do di chuyển của sán non Fasciola spp. Makay và cs. (2007) ở Thổ Nhĩ Kỳ báo cáo rằng F. hepatica là
thường gây nhiễm trên gia súc, cừu và dê và biểu hiện triệu chứng lâm
sàng của bệnh đa dạng vẫn có một tỷ lệ nghi ngờ cao. Bên cạnh phổ triệu
chứng về gan mật giống như vàng da tắc mật, viêm đường mật và xơ gan,
nhiễmký sinh trùng cũng là một bệnh lý lạc chỗ ngoài gan mà cụ thể ở mô dưới da, não, phổi, mào tinh hoàn, hạch lympho, dạ dày và manh tràng.
Huỳnh Hồng Quang và Nguyễn Văn Văn (2010) cũng đã báo cáo một trường
hợp SLGL lạc chỗ gây xuyên thủng đường mật và xuất huyết rỉ rả và cần
đến phẩu thuật nội soi mật tụy ngươc dòng và mổ hở trên một bệnh nhân
nam tại miền Trung Việt Nam. Lê Mười và cs., (2009) cũng đã báo cáo một
trường hợp bênh nhân có lỗ thủng đại tràng do SLGL lạc chỗ xuyên qua
không kèm theo abces gan do sán lá gan lớn, bệnh nhân được điều trị bằng
thuốc triclabendazole (TCBZ) và phẩu thuật phục hình, đã khỏi bệnh sau
đó.
7.Bệnh sán lá gan lớn lạc chỗ ở hệ cơ xương (Orthopedic fascioliasis):
El Ghawabi và cs. (1978) báo cáo một trường hợp nhiễm lạc chỗ.
Một đứa trẻ bị abces cơ mắc cá (T). Phẩu tích ra khối abces cho thấy
nhiều sán dẹt bên trong. Xét nghiệm mô hạt và kiểm tra test da cho thấy
hình ảnh là con sán F. gigantica
chưa trưởng thành. Huỳnh Hồng Quang và Nguyễn Văn Khá (2007) báo cáo
một ca bệnh SLGL lạc chỗ ở cơ thẳng bụng bên (P) của một phụ nữ 39 tuổi
sống tại Vũng Tàu, tiền sử trước đó 2 tháng có bị abces gan do SLGL lớn
được điều trị khỏi bằng thuốc TCBZ, hiện nay có triệu chứng ngứa và ban
trườn nhiều đợt tại vị trí cơ thẳng bụng, cứ vài ngày lại nổ gồ lên, đỏ
da và ngứa nhiều, siêu âm phát hiện hình ảnh abces cơ do SLGL, xét
nghiệm FasELISA dương tính hiệu giá 1/6400 và bạch cầu ái toan tăng lên
33.4%, điều trị khỏi bằng thuốc TCBZ liều 12mg/kg cân nặng, hình ảnh
abces trở về bình thường sau 20 ngày và theo dõi sau 2 năm không thấy
tái phát.
Prociv và cs.(1992) tại Úc báo cáo 2 bệnh nhân sưng phồng cấp. Ca bệnh đầu tiên là phụ nữ 46 tuổi, có một khối tìm thấy trong hạch lympho ở cổ chứa một sán trưởng thành loại F. hepatica
có đẻ trứng ra xung quanh mô. Bệnh nhân thứ hai là một đang ông làm lò
mổ gia súc 34 tuổi, có tổn thương dưới da giống như nang tuyến bã nhiễm
trùng và chứa một con sán non. Anh ta được điều trị bằng thuốc diệt
giun sán và không có biến chứng thêm. Họ kết luận rằng SLGL di chuyển
xảy ra ở Úc. Nó có thể gây các tổn thương ở nông hoặc sâu, không nhất
thiết có liên quan đến tăng bạch cầu trong máu ngoại vi hoặc phát hiện
thấy trứng sán Fasciola
trong phân, xét nghiệm huyết thanh học chứng tỏ giúp cho khâu chẩn
đoán. Marcos và cs. (2009) phát hiện một bệnh nhân nam 58 tuổi có một
khối u vùng cổ trước, khoảng 5cm không có triệu chứng hơn một năm nay. Phân tích về mặt mô học cho thấy hình ảnh viêm mạn tính và sinh u hạt kèm theo nhiều tế bào khổng lồ bao quanh trứng sán F. hepatica. Phân tích hóa mô miễn dịch, kháng nguyên Fas2 có trong mô. Huyết thanh học F. hepatica
là dương tính, nhưng xét nghiệm phân âm tính và bạch cầu ái toan bình
thường. Một tháng sau, khối u tái phát và con sán lồi ra. Bệnh nhân được
điều trị bằng TCBZ và 6 tháng sau kết quả huyết thanh âm tính. Vị trí
lạc chỗ của F. hepatica cho thấy hình ảnh bệnh học liên quan đến viêm mạn tính gây ra bởi sán trưởng thành, mặc dù theo lý thuyết chỉ có sán non là nằm ở vị trí lạc chỗ.
9.Bệnh sán lá gan lớn lạc chỗ ở hệ thần kinh (Neurologic systemfascioliasis)
Vatsal và cs.(2006) tại Ấn Độ có báo cáo nhiễm trùng lạc chỗ ở tủy sống do F. hepatica.
Một phụ nữ trẻ biểu hiện khởi bệnh từ từ với liệt 2 chân và liên quan
đến ruột và bàng quang. Chụp MRI cho thấy khối thương tổn ngoài màng
cứng cho hình ảnh đồng nhất và bất thường trên các phim chụp cột sống,
chẩn đoán là do chèn ép tủy, có thể do mô hạt ngoài màng cứng dạng lao
gây nên. Các tác giả kết luận vị trí tủy sống bị sán lạc chỗ Fasciola có thể xảy ra trong quá trình di chuyển của ký sinh trùng thông qua khoang phúc mạc hoặc từ gan đi qua tĩnh mạch cửa. Ying
và cs (2007) đã báo cáo một ca bệnh độc nhất về SLGL lạc chỗ trên một
bé trai 8 tuổi, biểu hiện nhức đầu nghiêm trọng và đa chấm xuất huyết
trong não. Một tháng sau, con sán dẹt nổi gồ lộ ra từ mắt (P) và xác
định là sán non F. hepatica.Sán
di chuyển đào hầm trong nhu mô não của bệnh nhân tựa như một điểm phình
mạch. Các tác giả không thể xác định chính xác đường di chuyển của sán
hướng về mắt (P).
10.Bệnh sán lá gan lớn lạc chỗ ở màng phổi (Pleural fascioliasis)
Điều trùng lặp ngẫu nhiên là cả bệnh nhân báo cáo ở đây đều 42 tuổi. Tác giả El Shazly và cs. (1991a)
ở Ai Cập báo cáo một ca bệnh SLGL lạc chỗ trong khoang màng phổi (P)
trên một bênh nhân nam, nông dân. Bệnh nhân có biểu hiện triệu chứng ho,
khó thở, nôn và tăng bạch cầu ái toan đáng kể. Xét nghiệm sán lấy ra
kèm theo trứng xác định là loại Fasciola spp.
Một ca bệnh thứ 2 đươc báo cáo bởi Huỳnh Hồng Quang và Lê Quang Quốc
Ánh (2007) là một phụ nữ, thợ may, bị SLGL có biến chứng đa màng lạc chỗ
phải điều trị nội khoa bằng TCBZ và phẩu thuật can thiệp loại bỏ tràn
dịch đa màng, lấy ra sán Fasciola gignatica.
Kết quả sau 16 tháng bệnh nhân khỏi hoàn toàn và không tái phát. Trường
hợp thứ 3 là bệnh nhân nam làm thợ cơ khí, bị SLGL đồng thời ở gan và
lạc chỗ ở màng ngoài tim, màng bụng. Trong quá trình điều trị nội khoa
bằng TCBZ của abces gan do SLGL thì bệnh nhân lên cơn khó thở, tiếng tim
mờ và điện thế thấp trên ECG, được chuyển cấp cứu mổ, lấy dịch ra cho
thấy nhiều sán trào ra qua vết phẩu tích màng tim, xác định là sán F. gigantica với
xét nghiệm huyết thanh dương tính hiệu giá 1/3200. Bệnh nhân khỏi bệnh
và xuất viện sau 40 ngày kể từ lúc mổ cấp cứu (Huỳnh Hồng Quang và cs.,
2007).
tag : men gan |dau hieu benh gan | viem gan sieu vi trung | bệnh gan to | viem gan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét